samedi 7 octobre 2017

Tản mạn về những món ăn nhớ đời







Tản mạn về những món ăn nhớ đời

Tháng 6 .1975 , tui đi tù VC  ở Trại  Long Giao – Long Khánh  .

 Giai đoạn đầu sách lược của VC  đối với tù binh VNCH chưa rõ rệt , doanh trại lại có sẵn ( là khu gia binh của Trung Đoàn 48 – Sư Đoàn 18 Bộ Binh /VNCH)  nên sinh hoạt của chúng tôi ngoài lần đi tháo gở phi trường Long Khánh để lấy đất trồng khoai mì , chỉ quanh quẩn làm vệ sinh , dọn dẹp chỗ ở , học tập vài bài chính trị vớ vẩn ..., thời giờ còn lại  thật rảnh  rổi , chỉ giải trí và chế tạo quà cho người thân.

Thời gian ở trại này  chúng tôi chưa  ăn độn mà chỉ phải ăn gạo mục  ( lấy tay bóp nhẹ , hạt gạo sẽ nát ra như bột , thường 1 chảo cơm  nấu với 4 thau gạo , nhưng số sâu vớt ra đã gần 1 thau và trong mỗi chén cơm vẫn còn sót khoảng 20 con sâu gạo  ) , ăn với 1 món cá biển kho và món canh bí hoặc cải nấu với muối .
Ngày 2 bữa và mỗi bữa chỉ 1 chén cơm với chút cá kho và canh  , không thoả mản được  sự kêu gào của bao tử , nên mọi thứ đều được tận dụng  như bí đao , bí đỏ thì không bao giờ bỏ vỏ , còn xương cá thì có một số bạn tù nhặt hết đem giã nát trộn với muối làm món chà bông , cơm cháy khét thì chế thành món cà phê Long Giao .

May  cho chúng tôi là Tiểu Đoàn Bộ Binh VC quản lý không khắt khe lắm , những Cán Bộ Quản Giáo  Đội thường nhận  ra Long Khánh mua giùm đường , đậu phọng , hạt giống rau  để trồng  nhằm  « cải thiện » thêm cho bữa ăn .
Trong  trại có 1 cái hố chứa đồ vứt bỏ của những bà nội trợ vợ lính  thời trước , lâu ngày biến  thành phân  màu mở , chúng tôi lấy đem trồng rau lang , dền ... thật tốt   .
Có mấy Ông Bác Sĩ Quân Y làm bẩy bắt chuột để ăn  . Thường khi  bắt được chuột  họ không thịt liền mà đem nhốt chuột vài hôm cho  « sạch sẽ »    ( chỉ nhốt khơi khơi chớ hổng thấy lấy sà bông thơm tắm rửa chuột ) , xui là có lần bị 1 Ông Tuyên Uý Phật Giáo lén thả hết chuột  , mấy vị Bác Sĩ cự nự thì bị lên lớp là " BS mà không biết giữ vệ sinh  ăn chuột bẩn lại phạm tội sát sanh "  .

Ngoài việc bắt chuột để ăn , tù còn lùng  bắt dế cơm   (LK là vùng đất đồi có rất nhiều dế cơm to hơn ngón tay cái) .
Vì nước thật hiếm nên không thể dùng nước làm ngập hang cho dế ngộp , nên 1 bạn tù và tui dùng 1 cây cuốc chim để bắt dế  . Thường  sau cơn mưa dế cơm đùn  đất lên trên miệng hang , chúng tôi  chọn những hang có đất mới để đào  , nhưng dế cơm khôn lắm luôn làm những hang ngách  phụ nên đào 10 hang hoạ hoằn chỉ bắt được 1 – 2 con .
Chúng tôi , mỗi đứa  đào 1 hang riêng , lần đó tui không tìm thấy dế nên đến chỗ Anh bạn để lấy cuốc thì chứng kiến 1 điều thật lạ lùng : » Anh bạn dùng tay phải moi phần đất đã cuốc , không ngờ bên dưới có 1 mảnh ve chai cắt đứt tay , máu tuôn ra , Anh  liền dùng bàn tay trái vẽ gì loằn ngoằn  trên không  rồi vuốt chỗ bị đứt , vết thương ngưng chảy máu và liền trơn . Tui là dân học toán – lý – hoá hổng tin ma – quỷ – bùa – ngải , nhưng  HÁ HỐC mồm  . Anh  bạn ra dấu yêu cầu tui không nói  lại gì với ai . Tui gật đầu hứa . Sau đó tui bị đưa ra Bắc , còn anh ta ở lại trong Nam - vì thuộc thành phần kỹ thuật .

Hồi trước , tui đi học rồi đi lính , nhưng thời gian  tù  ở trong Nam tui học  được của những  Bạn tù rất nhiều điều như dùng tôle  gò thùng , nồi , lon ...  , làm lược bằng thanh cọc lều , làm kim bằng lò xo của băng đạn M16 , làm vòng semaine bằng ống hoả tiển chống tank M72  (hợp kim nhôm) , rèn dao , tháo bao cát đánh dây luộc ,đẻo gỗ  làm guốc , chày ...  ,làm sắc du lịch với khung kẻm gai và vải áo giáp ... và nhất là tháo chỉ  nylon của áo giáp để sau này làm nhợ câu , làm bẩy chim  ( hồi đó tui chưa biết sờ mu rùa , cũng không đoán được phải đi luyện chưởng lâu , mà chỉ là việc làm ngẩu nhiên thôi ) .

Thời ở trại Long Giao , chúng tôi bắt đầu được nếm mùi ĐÓI  , nhưng hoạ thì vô đơn chí .
1.200 tên tù mà chỉ có 1 cái giếng nước  ưu tiên dành cho bếp  , nên chúng tôi phải tự đào thêm giếng  .  Các Vị SQ Công Binh lúc này có dịp trổ tài tìm mạch nước , nhưng thường trật lấc , hoạ hoằn mới ngáp được ruồi .
Long Khánh là vùng đất cao , nên chúng tôi thường phải đào giếng sâu 15 – 20 m mới có được chút nước , bản thân tui thì lần đầu thấy được  đất có thật nhiều lớp như bánh da lợn  .

Do thiếu nước  nên việc tắm giặt thật khó khăn , nhiều khi  kéo nước từ giếng thật sâu nhưng chỉ lấy được 5- 10 lít nước bùn , phải chờ bùn lắng  ,chắt lấy phần nước trong để dùng  . Có thể do  vấn đề vệ sinh không tốt nên thời này dịch ghẻ hoành hành  . Nhiều khi tù phải  trần truồng như nhộng đứng xếp hàng cho cô Y Tá VC cầm cây cọ sơn lớn chấm vào thùng bột  DDT ( thế giới đã cấm dùng ) phết lên cơ thể tù đầy ghẻ  ( thân như có gắn đầy hạt đậu đen ).

Tui cũng bị ghẻ nhưng chỉ ở bàn tay , mỗi sáng thức dậy sau màn thể dục tập thể  , tui phải nấu nước sôi dùng bông gòn rửa mũ , thoa thuốc đỏ rồi giả đọt lá dâm bụt , cỏ lữ đồng ... đắp  trị hết ghẻ .
**
 Giữa năm 1976 , chúng tôi bị chuyển ra miền Bắc     ( xin đọc  Ðá nát vàng phai – Kim Thanh )  .
300 đứa chúng tôi bị chỉ định tù ở tỉnh Yên Bái gần Trại 2 tù Đại Tá và Trại 5 tù Trung Tá . 
  
 Ngày đầu tiên , 100 người tù lán bạn khi phát quang cây cỏ , có người phải lội xuống 1 ao nước đọng  và bị nhiểm vi khuẩn bệnh sốt vàng da và trong đêm đã có 1 anh tù  chết .                              Anh Bạn cùng khoá HQ với tui cũng bị sốt vàng da , nhưng may mắn thoát chết – anh hiện sống ở Bắc Cali .

Tui ở Trại này chỉ hơn tháng thì bị chuyển sang Trại 10 cũng thuộc Đoàn 776- Hoàng Liên Sơn .     Tù nhân của Trại 10 hầu hết thuộc ngành An Ninh , Tình Báo và Tuyên Uý   (Phan Nhật Nam , Phan phát Huồn , Lê Quang Văn - em Ông Ba Cụt Lê Quang Vinh   ...) .

Số là trại cũ ở gần trại bò lục  (Đại Tá) và mỗi khi chúng tôi đi lao động đều phải đi ngang trại này , dỉ nhiên khi gặp mấy Ông Xếp cũ thì thường chào lén . VC thấy không ổn nên chuyển chúng tôi đến trại mới cách đó khoảng dăm bảy cây số .

Trại tù mới này nằm trong " u tịch cốc " , muốn vào trại phải vượt qua một vùng đất lầy , lún,  phải thả vài cây bồ đề lên trên  để  đi  .                                                                                                                      
 Chúng tôi san bằng 1 ngọn đồi nhỏ , bao quanh bởi 1 con suối đầy lau sậy để xây cất trại tù với tất cả nguyên liệu do thiên nhiên cung cấp : gỗ , tre , dây mây , cỏ , đất   . Trại tù thành hình nhưng VC hổng tốn 1 xu .

Thời này tuy cũng có học  ôn lại mấy bài học chánh trị bá láp và trồng một ít sắn , nhưng chủ yếu là xây cất lán  cho tù và cho bộ đội ở . Trước kia  , trừ việc làm nhà chòi hồi  còn nhỏ , tui có biết xây cất , mộc , nề ,  gì đâu , nhưng sau khi ra tù tui giúp hàng xóm lợp nhà , sửa bàn ghế , xây tường ... ngon lành  . 
Thậm chí nếu phải sống trong rừng hay hoang đảo mà có cây cưa ,cái búa hay tối thiểu 1 con dao tui cũng tự cất  được 1 cái nhà dễ dàng .

Việc ăn uống của tù ở Trại 10 thì hoàn toàn khác với khi ở Long Giao .  Lần đầu tiên chúng tôi biết được từ   "  ăn độn " . Không phải ăn gạo mục nữa , nhưng ăn toàn bắp xay   (nát nhưng chưa thành bột ) ,khoai mì , nước muối  , không có   bầu , bí gì hết chỉ thỉnh thoảng có bánh bột mì , đường cát đen , ngày lễ lớn như 2 tháng 9 , ngày tết thì có tí thịt lợn .

Dỉ nhiên là chúng tôi đói phờ râu , nhưng  bộ đội không quá khắt khe  . Chúng tôi chỉ lao động từ thứ hai đến trưa thứ bảy sau đó được phép tự tìm rau cỏ để cải thiện thêm .
Phần tui ,  lợi dụng mùa mưa suối có nước , có cá , thường câu được ít cá lòng tong ,cá bả trầu , cá trạch , hoặc hái lá mối vò làm sâm ăn , ngoài ra còn  hái lá lốt , rau má dồn đầy 2 cái bao cát để ăn dần  trong tuần , thỉnh thoảng đi rừng đốn giang , nứa tui cũng kiếm được bắp chuối , măng hay đọt giang .
Sở dỉ tui ăn nhiều lá lốt vì Anh Trung Tá Trưởng Phòng 2 SĐ2BB cho tui biết là nhờ dùng nhiều lá lốt mà trước kia Anh thoát được bệnh bán thân bất toại .

Miền  Bắc  rất nghèo  , bộ đội cũng ăn đói và dỉ nhiên tù càng đói hơn . 
Có 1 Anh tù Thiếu Tá trốn trại . Anh trốn vô rừng , nhưng rừng miền Bắc cũng khác rừng miền Nam , hổng có trái gì để ăn nên 21 ngày sau phải trở vô trại trình diện  .
Anh bị cảnh cáo nhưng không bị cùm mà chỉ bị  " cách ly " trong 1 cái chòi cạnh con suối  . Anh lấy bùn của suối đấp luống và gieo hạt cải mang theo từ miền Nam  , kết quả  ngoài sự tưởng tượng  , cải thật xanh tốt và 4 tên tù chúng tôi được  lệnh gánh lên nộp cho Bộ Chỉ Huy Của Liên Trại  ( 14 trại ) – Dịp này , được sự thông cảm của " 1 Chị Nuôi " chúng tôi chớp được miếng cơm cháy lớn dành nuôi lợn  , bẻ chia làm 4 , giấu trong túi áo và nhâm nhi khi trên đường trở về trại  . Ôi miếng cơm cháy ngon tuyệt vời .
Dù tù nổ lực " cải thiện ", nhưng rau cỏ quanh trại cũng có hạn , nên vài người tù đã bỏ mình do việc ăn uống thiếu thốn .

Anh Tuyên Uý Phật Giáo phụ trách nuôi heo , lợi dụng mỗi ngày lên rừng đốn  chuối rừng về xắt nấu với rau trai và muối cho heo ăn , Anh đã lén ăn sống vài lỏi chuối , ít lâu sau bụng trướng phình và chết .


Một Anh tù khác ăn con vạc sành   (criquet  hơi giống con cào cào) bị trúng độc suýt chết  và cũng Anh lần khác nướng 1 con cóc ăn  , nhưng vì tiếc ăn luôn bộ lòng cóc bị trúng độc (gan công , mật cóc) may nhờ chở lên BCH cứu kịp – hiện Anh sống ở Mỹ .

Tui cũng bị nạn về ăn uống khi ở Trại 10 . Do việc vệ sinh của Trại không tốt , những hố phân thường đầy ruồi nhặng  , nên khi chảo cơm hay nồi canh còn nghi ngút khói , ruồi đã nhào vô kiếm ăn , hậu quả là phần ăn của tù thường có cả nhiều  ruồi chết  và tui bị kiết  .

Khi  bị kiết thì nhiều hôm dù không ăn uống  gì nhưng vẫn  phải luôn  đi cầu - có khi ngày trên 20 lần ,phân toàn đàm và máu , thân thể tui gầy  như bộ xương biết đi chỉ còn nặng khoảng 35 kg   . Tui đuối sức  có khi không giăng nổi cái mùng phải nhờ người nằm bên cạnh giúp hoặc xuống suối giặt giùm quần áo .

Tuy bệnh không phải theo các Bạn tù để đi lao động , nhưng tui vẫn phải lao động tại chỗ như chẻ lạt để lợp nhà , cho đến khi thấy tui đuối quá  Trại quyết định chuyển tui đến Trại Cách Ly  ( tức tù bị kiết của tất cả các Trại chuyển về đây để không lây cho người khác và chờ chết ) .


tù với bộ xương cách trí
Trong cuộc sống ,  không bao giờ tui  nịnh hót ai , nhưng có lẻ do số tui chưa hết nên lần đó khi Trại  đã chỉ định 2 người tù với 1 cái đòn tre , 1 cái võng ( bằng cái mền túm hai đầu) chuẩn bị chuyển tui đi cách ly ,  thì tui buột miệng : "  trại cách ly đông người , ở đây chỉ vài người bệnh ,Cán Bộ chăm sóc chúng tôi kỹ , chắc chắn sẽ hiệu quả hơn " . 

Câu nói của tui có lẻ vuốt ve tự ái , làm mát dạ anh Cán Bộ Y Tá VC nên anh giữ tui lại  trại . Tuy  trại chỉ cho thuốc "  Xuyên Tâm Liên " (  trị bá bệnh ) , nhưng nhờ tánh mê nghiên cứu về dược thảo , mà quanh trại lá mơ  (lá thúi địch) có công dụng   trị kiết mọc thật nhiều , nên tui hái ăn mỗi ngày và  khỏi kiết  .
Ngoài ra tui còn có một may mắn khác : đã thoát chết trong đường tơ kẻ tóc  .

Số là gần trại có 1 cây vải rừng cổ thụ , thân cây thật to , từ gốc lên cao khoảng  4- 5 m suông đuộc chẳng ai leo lên được  . Cây vải thật sum  sê trái sắp chín nhưng chỉ có chim và khỉ ăn  .
Nhiều người tù đã thử leo lên hái trái nhưng đều thất bại , tui gốc dân quê leo trèo giỏi cũng có thử nhưng cũng không thành công  ( những sợi dây luộc dài mà chúng tôi bện trong Nam đều đã bị tịch thu hết trong những lần kiểm tra) .

Một buổi sáng chúa nhật nọ , thấy có  Anh Tuyên Uý Công Giáo  (cha N.Q.T) vắt vẻo trên cây vải và đang hái trái   . Tui bảo thằng bạn khom lưng xuống để tui đứng trên vai nó rồi thêm ít cố gắng tui leo được lên cây  .
Tui hái trái vải dồn đầy bao cát mang theo và bẻ nhiều nhánh vải ném xuống bên dưới .  Một bạn tù   ăn thử hạt vải thì thấy béo như  hạt đậu phọng , hạt điều  liền báo  cho mọi người biết  .
Hôm đó , tù được ăn bánh bột mì và mỗi người được lảnh 100 g đường , thế là có nhiều người  bày cách nấu chè hạt vải  ăn . Hậu quả là sau đó có vài người trúng độc chết và khoảng 20 người bị ĐIÊN  phải chuyển lên Đoàn chửa , mấy tháng sau mới khỏi .

Tui cũng có ăn vài chục hạt vải luộc nhưng may không chết , cũng hổng bị điên   (nhờ khi  đó Trời kêu nhưng  tui đã giả điếc không nghe và không dạ )
***
Khoảng giữa năm 1977 chúng tôi bị chuyển về Trại K1 – Tân Lập – Vĩnh Phú .
Thiên đàng , địa ngục có – không ? hay chỉ do con người dựng lên nhằm răn đời  , nhưng Trại K1 – TL-VP  là địa ngục thì  thật , 700 tù chuyển về đây trong hơn 2 năm đã có 125 người chết .

K1 – TL là trại được Bộ Công An chọn làm kiểu mẫu với cách quản lý thật khắc nghiệt  . Trại Trưởng là tên Thiếu Tá Công An Nguyễn huy Thuỳ  . Với thành tích vô cùng độc ác ,  từ Trung Sĩ Quản Giáo hắn được cất nhắc lên tới chức Thiếu Tá Trại Trưởng . Tuy nhiên , không phải chỉ do thành tích man rợ mà hắn có được địa vị này , thực ra là hàng tháng vợ hắn phải "  tu trang "  và đem xác hiến dâng  cho các chức sắc VC nắm vận mệnh của  NHT và người vợ này đã  lợi dụng thế yếu của hắn nên  xem hắn chẳng có kí lô nào .. Hắn không  dám phản ứng chống lại cấp trên và vợ nên bao khổ đau , uất hận  đều trút hết lên đầu lũ tù VNCH sa cơ thất thế .

Phụ tá đắc lực cho NHT là tên Cán Bộ An Ninh Hồng  - tên  hung thần ác sát này đã trực tiếp hoá kiếp hàng trăm người tù VNCH ở trại K1 mà  đa số là những vị Trung Tá già yếu , bệnh tật (các TrTá Hậu , Lạc , Phong ... ) . Nhưng lưới trời lồng lộng "ác giả ác báo " , vợ hắn 4 lần sanh đều không đứa con nào sống sót .
Ngoài ra , tên  cán bộ an ninh Hồng còn chỉ định 1 tù hình sự  tên  Phú làm Trưởng Ban Trật Tự của trại  . Tên này nguyên là Võ Sĩ ở Hà Nội , can tội giết vợ và chị vợ để lấy 3 chỉ vàng đánh bạc  . Hắn là hung thần của tù- nhất là tù hình sự , tui có lần chứng kiến hắn treo lủng lẳng một tù hình sự gầy như bộ xương cách trí (tội nhổ trộm sắn) để 2 tên công an vũ trang đấm đá như dượt võ với cao cát , thậm chí chúng còn dùng báng súng AK và nòng súng  dộng vào ngực , bụng tên tù đến trào máu họng .

Có điều là sau lần bị người tù VNCH   tên La Đạo Sĩ (nguyên là tu sĩ ở núi Cấm – Châu Đốc ) võ nghệ cao cường dạy cho một bài học  , hắn kiềng mặt không còn dám hiếp đáp tù CT như trước  ( từ đây tui dùng từ tù CT thay cho chữ tù VNCH).

Một điều lạ  nữa là trong  25  đội tù , thì vài  đội tù hình sự  Đội Trưởng , Đội Phó toàn là loại " đầu gấu " (du côn ,độc ác  ) , còn ĐT , ĐP của các đội tù CT thì hầu hết là những SQ/Cảnh Sát  ' nhiều tiến bộ " trong đó  Đội 13 với Tr. Tá Năm làm ĐT là khủng khiếp nhất  . Khi  Tr.Tá Năm chết vì ăn  măng trúng độc thì Đ/U Thống  thay , còn sắt máu hơn  .

Tui đã qua 4 trại tù , nhưng phải nói là ở Trại K1 – TL , tù CT làm ăng ten nhiều như rươi , do bị VC dụ dỗ "  lập công với cách mạng sẽ được cứu xét về sớm "  . Bản thân tui trong thời gian ở trại này đã bị ăng ten tố cáo 4 lần  vì những việc thật cỏn con   (nhổ nấm mèo mọc hoang , kể chuyện cái miểu ở Hoàng Sa , được tù hình sự cho muỗng muối  ) .

Buồn cười là khi tui được chuyển từ nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn của xã hội   (được tạm tha) thì hầu như những  vị ăng ten vẫn còn được VC  tin dùng  ở lại giúp chúng .

Việc ăn uống ở trại K1 – TL thì tồi tệ hơn những trại  trong Nam hay ở Hoàng Liên Sơn  . Trên nguyên tắc thì tù mỗi tháng được ăn 15 cân  (Kg) sắn , bo bo , bắp … , nhưng thực tế thì không như chúng nói khiến tù đói phờ râu . Ở HLS , bộ đội còn cho phép tù kiếm thêm rau cỏ để cải thiện , còn ở K1-TL thì tuyệt đối cấm , ai vi phạm thì bị cùm .

Ở trại K1-TL thì trừ đội nhà bếp  (hình sự phụ trách) , đội xay xát , đội xây dựng , đội làm gạch   còn lại tất cả là những đội nông nghiệp trồng lúa , nếp , sắn , rau    .


sắn lát

Quanh trại thì sắn được trồng thật nhiều , nhưng khi tù phải ăn khoai mì 70 món thì thường là sắn dui   (sắn xắt sợi phơi khô) hoặc sắn đẻo   (sắn xắt lát  phơi ) thật hôi mốc  , nếu trước 1975 đem nuôi heo miền Nam chúng cũng lắc đầu  hổng ăn   .

Bo bo là thực phẩm nuôi gia súc do Ấn Độ viện trợ , nếu không vỏ ( ý  dỉ ) đem nấu chè sâm bổ lượng ăn cũng ngon miệng , nhưng nếu còn vỏ thì ăn bo bo sẽ thải ra bo bo ( của thiên trả địa vì bao tử con người không tiêu hoá được vỏ bo bo như gà , vịt  …) .

Còn ăn bắp dù là bắp trái hay bắp hạt càng khổ hơn vì cả hai đều cứng như đá  - tù gọi là bắp đá (các hợp tác xã ngoài Bắc thu hoạch bắp phơi thật khô rồi đóng thuế cho nhà nước ) . Bắp trái thì lưa thưa ít hạt , còn bắp hạt  hoặc bo bo thì thường có  lẫn với than đá  do được  chở  cùng toa xe lửa khi thì than đá , khi thì chở hạt nhưng  không được chứa trong bao bì . Bắp đã cứng , củi lửa lại thiếu , tù hình sự nấu ba sồn bốn sực  , nên ăn những thứ này tù khổ vô cùng nhất là những người thiếu hoặc không còn răng  .

Tui thuộc thành phần này , vì răng mục , gảy , nhiều khi đang trệu trạo nhai  thì cảm thấy là lạ , lấy lưỡi rà thì có 1 miếng hay 1 cái răng nào đó đã theo bắp đi viếng cái bao tử . Nhiều khi răng , nướu đau , hai bên má sưng như ngậm 2 trái mù u , nhưng để sống còn tui vẫn phải đưa những hạt bắp tới nóc giọng và nuốt như người Pháp gaver vịt , ngổng nuôi để lấy gan lớn  .

Tuy biết vi phạm nội quy của Trại phải bị cùm , nhưng vì bản năng sinh tồn khi đói quá nếu có dịp thì ai cũng   "CHÔM CHỈA"  .
Bản thân tui vì nghĩ đoạn đường  tù của mình  đã khá lâu , nếu vi phạm nội quy VC có thể cho là chưa tiến bộ để không thả , nên tui không bao giờ  "  thu hoạch linh tinh  – trộm   " hoa màu của Trại  . Tuy nhiên tui cũng có lén ăn bậy  .

Một lần ở Đội Nông Nghiệp , lợi dụng tên công an vũ trang ngó lơ , tui lén nhổ vài cây rau chóc  (giống rau mác nhưng cọng chỉ nhỏ bằng ngón tay út  ) ở bờ ruộng , rửa sơ nước  xâm xấp đầy phân người   (phân bắc ) , phân trâu và phân xanh để chuẩn bị cấy lúa , rồi nhai nuốt vội cho bao tử không nổi loạn . May quá ,thật  mất vệ sinh nhưng lần đó  tui hổng bị bệnh .

Lần khác , đội tui phải trồng bắp theo kiểu của dân du mục  bán khai , tức dùng 1 cọc nhọn chọc 1 lỗ thủng dưới đất , bỏ hạt bắp giống xuống lỗ rồi dùng chân lắp đất lại , sau đó trăm sự nhờ trời . Bắp có mọc hay không thì tuỳ mưa hoặc  không bị mối ăn và cây bắp mọc mà có trái hay không thì lại nhờ sự mầu mở của đất  . Có điều VC không biết là bắp chỉ mọc lưa thưa nhưng không phải do mối ăn mà thay vì bỏ hạt xuống lỗ , hầu hết tù đã bỏ vào  mồm .

Rồi có lẻ do ăng ten báo , nên những lần sau hạt bắp giống đều bị VC  ngâm trước trong  nước pha  DDT  .

Một lần , thấy vài Bạn tù ăn  vỏ sắn nướng - trông ngon lành như bánh tráng nướng , tui cũng bắt chước , nhưng nhờ rút kinh nghiệm về mấy Ông Trung Tá bị chết do ăn lá sắn luộc ở Trại 5 – HLS và việc đàn heo của Trại 10- HLS chết sạch vì ăn vỏ sắn nấu , nên tui chỉ nhâm nhi tí xiu cho " thơm râu " thôi  (  chỉ 50 mg acide anhydric  trong sắn đủ làm chết 1 người nặng 50 kg ).

Ở Trại tù K1-TL-VP số  tù chết vì vấn đề " ăn uống linh tinh "  khá nhiều như : Trung Tá Năm  chết vì ăn nhiều măng trúng độc , Trung Tá  Quá  chết vì ăn cây dền kiểng  ,Đại Uý Cảnh Sát T.H.Nghĩa bị phù thũng chết vì ăn canh đại dương  có chút mắm ruốc  ...   .

Tui và nhiều người tù khác cũng bị phù thũng nặng trong  thời gian này , nhưng nhờ được ăn chút cám và hàng ngày lén ăn cỏ cứt lợn  (cỏ cứt heo có tính kháng viêm)  nên đã không bị hoá kiếp .

Ở trại K1- TL có câu tù đùa với nhau  "  con gì nhúc nhích chàng ta  chén  liền "  (chén tiếng lóng là ăn) , nhưng phải nói rõ là con đỉa , con vắt , con dòi , con dán thì dù đói chúng tôi cũng không ăn .

Tuy nhiên , trong thời luyện chưởng ở Trại K1-TL tui cũng được thưởng thức những món ăn nhớ đời .

Khoảng năm 1979 , khi thấy tù bị chết nhiều quá  VC nghĩ ra sáng kiến"  nhờ gia đình người tù nuôi hộ giùm đảng và nhà nước " bằng cách cho gửi quà – lúc đầu là 3 kg rồi 5 kg , 10 kg và cho thăm nuôi  . Nhiều người tù gia đình trước khá giả đã gửi đường , sửa bột , mì ăn liền ... cho người thân .

 Một buổi chiều chúa nhật mưa tầm tả , tui không ra sân được  (  VC cũng cấm tù  lán này đến lán khác) ,  lại không có quà nên nằm nhắm mắt nghe bao tử " kêu ột ột "  , còn  những người tù có quà thì tụ lại trao đổi với nhau những ngụm sửa hay những gắp mì . Mùi hành phi của mì thốc vào mũi tui như con chuột Jerry trong phim hoạt hoạ  bị mùi pho mai quyển rũ  , tui thật khổ sở    (vì tù có quà chỉ chơi với nhau) , nhưng bỗng có tiếng «  cộp «  nhẹ cạnh mình , mở mắt ra thì thấy 1 cục kẹo dừa Bến Tre  do 2 con chuột cắp của ai đang đuổi cắn nhau giành ăn dưới mái nhà đánh rơi  . Tui lột  giấy bao , bỏ kẹo vào miệng , chất  béo của nước cốt dừa chạy dài từ cuống họng  xuống bao tử tui giống như khi uống ly rượu mạnh .  
                                                                                                        
Trong cuộc sống tui từng ăn thật nhiều loại kẹo , nhưng chưa bao giờ ngon như khi ăn cục kẹo này .

Một hôm Trại K1" ngả " ( làm thịt ) lợn ( thường chỉ do tù hình sự phụ trách để cán bộ VC dễ chấm mút ) .Hôm đó sau khi cấy mạ xong , Đội tui được gom về Ao Xả  để tắm giặt ( ao  rộng khoảng 2- 3 hecta tù không thể trốn thoát được) . Tui cảm thấy bị ớn lạnh nên không tắm mà chỉ ở chỗ cạn để rửa bùn sình  2 chân và chợt thấy dưới dạ cầu có cục mở heo to bằng bắp tay , tui chớp ngay và dấu ở hạ bộ  (khi tù trở về trại thường bị ban trật tự đứng trước cổng lục soát khắp mình mẩy tù , nón, ca , cống  ... để tịch thu rau , củ ... mà tù giấu ) . Khi vào lán , tui kể cho 1thằng bạn tù , nó phân công tui đứng canh chừng , còn nó lấy 1 nhúm đóm ( tre , nứa chẻ mỏng , phơi khô để mồi lửa hút thuốc lào )  và cục mở   vào trong cái nhà hoang xây chưa xong bỏ dở vì thiếu vật liệu   . Lát sau nó đem ra cục mở chưa đủ chín , đen thui vì khói bám  , chia đôi và 2 đứa thanh toán sạch .

Ôi miếng mở ngon tuyệt vời 

Lần khác , trước khi xuất trại lao động thì cán bộ VC đọc danh sách những người có quà được ở lại trại để lảnh . Một Bạn tù có lúc chung đội Nông Nghiệp với tui  dặn : "  chiều lao động về mày chạy sang gặp tao ". Buổi chiều , lợi dụng lúc tù đi lảnh cơm chộn rộn , tui đến gặp nó thì được nó cho 2 miếng bánh mì biscottes trét bơ thực vật và đường cát . Tui ăn ngấu nghiến miếng bánh mì ngon nhất đời .

Một hôm , khi đang leo lên triền núi để kéo cây củi bị chết cháy  do đồng bào thiểu số đốt tranh lấy tro để trồng trọt  , tui thấy 1 con rắn hổ  chết đã  thành khô  . Cỏ tranh khi cháy bùng thì những con mển , chồn ... chạy nhanh để tẩu thoát , chim cũng bay xa nhưng rùa , rắn không chạy kịp bị lửa nóng chết , sau đó nhiều ngày dưới ánh nắng mặt trời trở thành khô  . Tui nhặt xác rắn , chặt bỏ đầu chôn dưới đất  rồi bẻ 1 khúc khô rắn bỏ vào miệng nhai . Đang ngồm ngoàm thì 1 Bạn tù - dân QGHC ,Trưởng Ty Xã Hội Tỉnh Gia Định , cách đó khoảng hơn mươi mét hỏi "  ê ăn gì đó mậy " . Tui rủ Anh  lại để cùng ăn . Con rắn dài khoảng  1,80m , nhưng chỉ hơn 10 phút sau chúng tôi đã thanh toán sạch  . 

Tui đã từng thưởng thức khô bò , khô nai , khô cá thiều..., nhưng lần ăn khô rắn đó là ngon nhứt đời .
....................................................  .
Chuyện ăn uống ở những trại tù của VC thì tuỳ hoàn cảnh mỗi nơi một vẽ , nếu viết thành trường thiên tiểu thuyết chắc cũng không kể hết được  .
Do đó tui kể lể đôi điều này để các Bạn từng nếm mùi nhớ lại kỹ niệm thời học ở "  ĐẠI HỌC MÁU " , còn những ai chưa từng biết gì về  thiên đàng CS thì đọc để mua dzui  hoặc ít ra thông cảm hơn với người lính VNCH   .

Paris , chớm thu 2017
      HQ.tkd